Sáng kiến kinh nghiệm Các biện pháp giúp đỡ học sinh yếu môn Toán Lớp 5
Đặt vấn đề
Trong công cuộc đổi mới đất nước Đảng và Nhà nước ta chủ trương « Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người là tất yếu cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.” (Nghị quyết hội nghị lần 2 BCH Trung Ương Đảng khoá VIII).
Bậc Tiểu học trong những năm gần đây đã được đặt đúng vị trí xứng đáng của nó “Bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật phổ cập giáo dục Tiểu học), Nghị quyết Trung ương 2 cũng yêu cầu: “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học” để thực hiện mục tiêu đó, nội dung giáo dục Tiểu học phải triển khai đồng đều ở các lĩnh vực, khoa học kỹ thuật và lối sống đạo đức. Môn Toán là một môn học, thuộc loại quan trọng bậc nhất của bậc Tiểu học là phần cứng của chương trình giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức phát triển trí thông minh sáng tạo qua năng lực trí tuệ, tư duy lôgíc, góp phần quan trọng vào việc hình thành phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Do đó việc quan tâm bồi dưỡng năng lực học Toán và làm Toán cho học sinh là việc làm không thể thiếu.
Mặt khác gần đây vấn đề đảm bảo chất lượng bền vững học sinh lớp 5 HTCTTH lên học lớp 6 cũng là một vấn đề nóng mà Sở giáo dục, Phòng giáo dục các huyện thị của thành phố Lào Cai đang rất quan tâm. Hiện nay, trong các nhà trường nói chung và trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc nói riêng tỉ lệ học sinh trung bình và yếu vẫn còn, đặc biệt tình trạng học sinh yếu đang là mối quan tâm, lo lắng của những người làm giáo dục và của cả xã hội.
CÁC BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 5 . Đặt vấn đề Trong công cuộc đổi mới đất nước Đảng và Nhà nước ta chủ trương « Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người là tất yếu cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.” (Nghị quyết hội nghị lần 2 BCH Trung Ương Đảng khoá VIII). Bậc Tiểu học trong những năm gần đây đã được đặt đúng vị trí xứng đáng của nó “Bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật phổ cập giáo dục Tiểu học), Nghị quyết Trung ương 2 cũng yêu cầu: “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học” để thực hiện mục tiêu đó, nội dung giáo dục Tiểu học phải triển khai đồng đều ở các lĩnh vực, khoa học kỹ thuật và lối sống đạo đức.... Môn Toán là một môn học, thuộc loại quan trọng bậc nhất của bậc Tiểu học là phần cứng của chương trình giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức phát triển trí thông minh sáng tạo qua năng lực trí tuệ, tư duy lôgíc, góp phần quan trọng vào việc hình thành phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Do đó việc quan tâm bồi dưỡng năng lực học Toán và làm Toán cho học sinh là việc làm không thể thiếu. Mặt khác gần đây vấn đề đảm bảo chất lượng bền vững học sinh lớp 5 HTCTTH lên học lớp 6 cũng là một vấn đề nóng mà Sở giáo dục, Phòng giáo dục các huyện thị của thành phố Lào Cai đang rất quan tâm. Hiện nay, trong các nhà trường nói chung và trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc nói riêng tỉ lệ học sinh trung bình và yếu vẫn còn, đặc biệt tình trạng học sinh yếu đang là mối quan tâm, lo lắng của những người làm giáo dục và của cả xã hội. Năm học 2013-2014 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5B. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy một số học sinh còn học yếu hai môn Văn, Toán (đặc biệt là môn Toán) do bị hổng các kiến thức và kỹ năng cơ bản. Là giáo viên tôi không thể hờ hững được vì đây là nhiệm vụ của mình. Vậy làm thế nào để không còn học sinh học yếu môn Toán nữa, đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán lớp 5”, với mong muốn giúp đỡ các em có hứng thú và học tập tốt hơn môn Toán. 2. Giải quyết vấn đề 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề - Toán và Tiếng Việt là hai môn khoa học cơ bản nhất, trong đó Toán là môn khoa học cơ sở, tạo nền móng đề học tất cả các môn khoa học tự nhiên khác. Nắm chắc kiến thức môn Toán ở Tiểu học, các em có thể vận dụng tốt vào trong cuộc sống và có cơ sở để học tiếp các cấp học khác. Nếu học yếu, các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và rất khó lĩnh hội những kiến thức ở cấp học sau. - Một học sinh bình thường về mặt tâm lý không có bệnh tật đều có khả năng tiếp thu môn Toán theo yêu cầu phổ cập của chương trình Toán Tiểu học. - Những học sinh từ trung bình trở xuống: Các em có thể học đạt yêu cầu của chương trình nếu được hướng dẫn một cách thích hợp. - Học sinh yếu: Học sinh yếu về Toán là những học sinh có kết quả học tập toán thường xuyên dưới trung bình. Việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng cần thiết ở những học sinh này thường đòi hỏi nhiều công sức và thời gian so với những học sinh khác. - Chuẩn kiến thức kỹ năng: Chuẩn kiến thức kỹ năng là quy định mức kiến thức tối thiểu mà học sinh phải đạt được sau một bài, một phần của bài học do Bộ Giáo dục, các tác giả viết sách đã cung cấp. Thầy cô phải bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng để soạn bài, để cung cấp kiến thức cho học sinh, nhằm tránh quá tải cho học sinh, tránh tính chủ quan và ôm đồm kiến thức khi truyền đạt cho học sinh - Năng lực: Từ điển mở Wiktionary định nghĩa ngắn gọn năng lực là “Khả năng học hay làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn”. - Phương pháp học tập là "Những cách thức hay đường lối học hành mà khi người học đầu tư vào việc học của mình một khoảng thời gian hợp lí và mang lại hiệu quả cao. Giúp người học hiểu rõ và nắm bắt được nội dung của bài học một cách tốt nhất." 2.2. Thực trạng của vấn đề 2.2.1.Ưu điểm - Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao, kiểm soát chất lượng chặt chẽ, đặc biệt quan tâm và có kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu cụ thể. - Phần lớn học sinh ngoan, có ý thức tự giác học tập, phụ huynh quan tâm đến con em mình. - Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa và các đồ dùng học tập. - Giáo viên chủ nhiệm đã dạy nhiều năm lớp 5, có chuyên môn vững vàng, có nhiều biện pháp kèm cặp học sinh yếu có hiệu quả. - 100% học sinh được học 2 buổi/ngày nên giáo viên chủ nhiệm có nhiều thời gian kèm cặp học sinh yếu. 2.2.2 Những tồn tại Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: Với môn Toán, hầu hết các học sinh yếu đều có một nguyên nhân chung là: kiến thức ở các lớp dưới bị hổng; không có phương pháp học tập, tự ti, rụt rè, thiếu hào hứng trong học tập. Đồng thời ở mỗi học sinh yếu môn Toán đều có nguyên nhân riêng, rất đa dạng. Với đặc điểm tình hình của lớp, tôi có thể chia ra một số nguyên nhân thường gặp là: Thứ nhất: Do hổng, quên kiến thức cơ bản ; kỹ năng tính toán yếu (Kiên, Tùng ): Do chưa nắm chắc các kiến thức của lớp dưới, nên các em không có kiến thức để học và vận dụng vào giải các bài toán của lớp đang học. Khi học bài mới trên cơ sở vận dụng các kiến thức cũ thì các kiến thức cũ này đối với các em dường như rất mới, rất xa lạ, khiến các em càng khó lĩnh hội nội dung bài học đó. Thứ hai: Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn chế (Tú, Dìn, Mây, Sơn): Những học sinh này thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển. Việc ghi nhớ các nội dung, quy tắc, lí thuyết còn chậm, hiểu bài không nhanh nên việc vận dụng vào trong bài tập còn lúng túng, khó khăn. Khi tính toán, các em còn phải lần tìm lại những kiến thức cũ nên giải bài rất chậm. Thứ ba: Do mải chơi, lười học, không hứng thú học môn Toán (Chính, Hiếu, Quỳnh): Do ham chơi, các em thường tính ẩu, làm nhanh xong các bài tập để làm các việc riêng khác. Trong lớp các em không chú ý nghe giảng, lười suy nghĩ. Ở nhà, các em không chịu học những kiến thức lí thuyết cơ bản, chỉ làm xong những yêu cầu của cô giáo giao cho mà không kiểm tra lại kết quả. Các em không hứng thú trong học tập mà chỉ chú ý vào những trò chơi, trò nghịch ngợm. Thứ tư: Do các điều kiện khách quan khác (Nhật Anh, Hoàng): thiếu điều kiện học tập (hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thiếu phương tiện học tập, nhà ở chật chội, nhà buôn bán ồn ào, không có phòng học riêng ảnh hưởng đến việc học); do quan niệm sai lầm của một số phụ huynh học sinh (có phụ huynh phó mặc việc học hành của các em cho nhà trường, không động viên, kiểm tra và cùng giám sát các em, nhưng cũng có một số phụ huynh khác lại có các phương pháp dạy học không phù hợp gây áp lực về điểm số cho các em, . . ); hoặc do điều kiện khách quan tác động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le, bố mẹ bỏ nhau, gia đình không hạnh phúc, . ). Những học sinh này thường không tự giác học và chuẩn bị bài ở nhà nên kết quả học tập tương đối kém. Vì kết quả học tập kém, các em càng tự ti, không tin vào khả năng của mình. Vào mỗi giờ học Toán, các em cảm thấy "sợ" và thường thu mình lại, ít tham gia xây dựng bài học. Xác định rõ một trong những nguyên nhân trên đối với mỗi học sinh là điều quan trọng. Công việc tiếp theo là giáo viên có biện pháp để xoá bỏ dần các nguyên nhân đó, nhen nhóm lại lòng tự tin và niềm hứng thú của học sinh đối với việc học môn Toán. 2.2.3.Kết quả khảo sát đầu năm Vào năm học mới, sau khi ổn định tổ chức, tôi tìm hiểu và phân loại học sinh bằng cách khảo sát để có biện pháp bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập các môn mà các em còn yếu. Kết quả khảo sát đầu năm 2013-2014 môn Toán lớp 5B tôi đang chủ nhiệm như sau: TSHS TSHSKS Giỏi Khá TB Yếu 36 35 SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 6 17,1 10 28,8 13 37 6 17,1 Như vậy, tỉ lệ học sinh trung bình và yếu vẫn còn nhiều nhiệm vụ được đặt ra là người giáo viên chủ nhiệm lớp phải cố gắng giúp đỡ các em này phải đạt chuẩn KTKN môn học và nhanh chóng theo kịp được với mặt bằng kiến thức chung của lớp. 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Để giúp đỡ học sinh yếu vươn lên trong học tập, trước hết tôi xác định và phân loại đối tượng học sinh theo từng nhóm như trên để có biện pháp bồi dưỡng thích hợp và tiến hành một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu như sau: 2.3.1 Gây hứng thú học tập cho các em Trong những học sinh học yếu môn Toán có nhiều học sinh không hứng thú học môn Toán. Vậy để kích thích học sinh có húng thú học môn Toán tôi xác định điều đầu tiên quan trọng là phương pháp dạy của giáo viên. Dạy phát huy tính tích cực của học sinh, dạy sát đối tượng bằng cách trong các giờ học Toán tôi có các câu hỏi, bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh để cả học sinh yếu cũng được làm việc, được tham gia vào cá hoạt động học tập để tránh tình trạng học sinh yếu không được hoạt động dễ gây ra nhàm chán, thụ động. - Sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy kết hợp hài hoà với các phương pháp dạy học khác. - Để tạo hứng thú cho các em học tập, tôi tạo ra không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không để học sinh sợ giáo viên và tạo ra nhiều trò chơi Toán học như: giải đố toán; thi giải toán đúng, nhanh; lựa chọn các phép tính đúng giải toán tiếp sức; chữ số bí ẩn; . . . tạo không khí vui vẻ, cởi mở mà vẫn học tập tốt. Ví dụ: Dạy về nhân số thập phân tôi có các bài tập nhận diện như sau: Thi ai nhanh ai đúng: Đúng viết Đ sai viết S vào ô trống 1, 36 1, 3 6 x 2,5 x 2,5 6 8 0 6 8 0 2 7 2 2 7 2 3 4 0 0 3, 4 0 0 Trò chơi này tôi dành gọi học sinh trung bình và học sinh yếu, qua trò chơi này đã cũng có khắc sâu cho học sinh kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích khi đã thực hiện xong bước nhân như nhân 2 số tự nhiên, vì điều quan trọng nhất của nhân số thập phân là kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích và đây cũng là bước học sinh hay quên nhất. - Giúp học sinh tự tin rằng mình có thể học giỏi Toán như các bạn bằng cách thường xuyên gọi học sinh báo cáo trước lớp kết quả làm việc của bản thân hay của nhóm mình. - Trong mỗi giờ học, hướng dẫn và kèm cặp các em thật tỉ mỉ, kĩ những kiến thức kĩ năng cơ bản. Yêu cầu các em làm từng bài tập cho thật hoàn chỉnh rồi mới chuyển sang bài sau, không ôm đồm đòi các em theo kịp các bạn trong lớp. - Xác nhận và động viên sự tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất. - Chú ý đôn đốc, nhắc nhở, dùng tập thể để động viên cổ vũ, giúp đỡ để các em tự nhận biết và cố gắng học tập. - Không lạm dụng trách phạt, sử dụng phương pháp kỉ luật tích cực đối với những học sinh này. Nêu những tấm gương sáng về người nghèo nhưng hiếu học và đã trở thành những người nổi tiếng để các em noi theo. - Thường xuyên gần gũi, tìm hiểu, quan tâm lắng nghe mong muốn của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh nói lên những suy nghĩ của mình để giáo viên nắm bắt được tâm sự, nguyện vọng, sở thích thái độ học tập của học sinh từ đó sẽ có tác động đúng hướng kích thích các en học tập. - Động viên kịp thời học sinh làm đúng, trả lời gần đúng bằng các câu nói khích lệ, khuyến khích: Có cố gắng, gần đúng rồi, . . . Dùng phương pháp nêu gương mỗi khi các em làm đúng bài tập, phép tính. - Trực tiếp gặp gỡ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình. Cùng gia đình các em trao đổi, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em học tập. Trao đổi, kết hợp với phụ huynh học sinh chọn phương pháp thích hợp nhất để thúc đẩy các em ham thích học tập và quản lí việc học ở nhà, từng bước đưa các em vào nền nếp học tập. - Trao phần thưởng cho từng học sinh có tiến bộ sau mỗi đợt thi đua (đạt từ học lực Yếu lên Trung bình). - Khen ngợi, động viên kịp thời các em. Không chê và phân tích tỉ mỉ những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết cách khắc phục và tự tin hơn trong học tập - Thường xuyên kiểm tra việc làm bài tập của các em: ở lớp, ở nhà. Gọi học sinh yếu lên bảng chữa bài, phát biểu và nhận xét bài nhiều lần. - Trong khi báo cáo kết quả của hoạt động nhóm thường xuyên gọi các bạn học yếu đại diện nhóm phát biểu ý kiến trước lớp để tạo cho các bạn tự tin trước tập thể, mạnh dạn trong học tập ; học sinh yếu kém có điều kiện thể hiện mình trước lớp bằng những câu trả lời ngắn, những bài tập dễ chỉ áp dụng công thức, quy tắc để học sinh yếu được cuốn hút vào các hoạt động học tập. 2.3.2. Bù lấp chỗ hổng kiến thức ; hướng dẫn một số thủ thuật tính toán, phương pháp học Toán – Kiến thức toán học được cấu trúc theo hướng đồng tâm xoáy trôn ốc. Như vậy chỉ cần một chỗ hổng hay một vùng kiến thức nào của học sinh bị thiếu đồng nghĩa với việc học sinh khó có thể tiếp thu được cái kiến thức tiếp theo và đó là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến học sinh học yếu môn Toán. Như vậy trong quá trình giảng dạy môn Toán ngay từ đầu năm tôi tôi thường phát hiện những chỗ hổng mà học sinh mắc phải và kịp thời bù lấp những chỗ hổng đó. 2.3.2.1. Với chỗ hổng về bảng cửu chương - Cho học sinh ôn lại các bảng: Bảng nhân, bảng chia, cách cộng, trừ, . . . - Kiểm tra bảng cửu chương hàng ngày - có thể mỗi ngày thuộc một bảng (đọc - viết ra giấy). Ví dụ: Thứ hai thuộc bảng nhân 4. Thứ ba thuộc bảng chia 4. - Kiểm tra thường xuyên các bảng chủ yếu là bẳng nhân và chia của học sinh yếu trong từng tiết học. - Thực hành rèn luyện các kĩ năng nhân, chia thường xuyên. 2.3.2.2. Với chỗ hổng về các dạng toán cơ bản (Học sinh quên cách giải các dạng toán cơ bản ). - Liệt kê lại các dạng toán của các lớp dưới ( Ví dụ đối với học sinh lớp 5 tôi liệt kê lại các dạng toán cơ bản của lớp 4). Dạng toán trung bình cộng. Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Dạng toán Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. Dạng toán về hình học; Hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi. Hoặc một số dạng toán cơ bản của lớp 5 (Toán về tỷ số phần trăm, toán tỷ lệ..) - Nhắc lại cho học sinh cách giải từng dạng toán, phân biệt sự khác nhau giữa các dạng toán và yêu cầu học sinh học thuộc. Ví dụ ở lớp 5 học sinh thường nhầm lẫn 2 dạng toán về tỉ số phần trăm: dạng tìm một số khi biết số phần trăm của nó và dạng toán tìm số phần trăm của một số. Tôi cho học sinh giải đồng thời 2 bài toán sau: Bài 1: Tìm 25 % của 120 2.3.2.3. Hướng dẫn học sinh kỹ năng và một số thủ thuật tính (thủ thuật nhân, chia các số có nhiều chữ số) + Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số: - Đặt tính đúng (các hàng phải thẳng cột với nhau). - Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới. - Thử lại để kiểm tra kết quả. + Kĩ năng nhân: - Đặt tính. - Thực hiện nhân: Viết các tích riêng thật đúng, thật thẳng hàng với nhau. Mỗi tích riêng sau lùi sang trái một hàng so với tích riêng trước. + Kĩ năng chia: Yêu cầu: - Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ số. - Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương. - Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng, trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính (giữa phép cộng và phép trừ, giữa phép nhân và phép chia, ....). Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học sinh thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn. Ví dụ 1: Tính: 573 : 81 Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau: - Che chữ số hàng đơn vị. ( HS che 3 và 1 ) - Nêu phép chia còn lại ? ( 57 : 8 ) - Ước lượng thương. (được 7) - Thử vào phép chia: 573 81 06 7 Vậy: 537 : 81 = 7 ( dư 6 ). Ví dụ 2: Tính 628 : 49 Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau: - Làm tròn số bị chia và số chia (628 làm tròn thành 630; 49 làm tròn thành 50 ). - Nêu phép chia với các số vừa làm tròn ( 630 : 50 ) - Che chữ số 0 rồi ước lượng thương (che chữ số 0 còn 63 : 5, vậy thương là 12). - Thử vào phép chia. 628 49 138 12 40 Vậy 628 : 49 = 12 ( dư 40 ).. Bài 2: Tìm một số khi biết 50 % của nó là 120. Học sinh đưa ra cách giải: Bài 1: 25% số đó là: 120: 100 x 25 = 30 Bài 2: Số phải tìm là: 120: 50 x 100 = 240 Tôi cho học sinh phân tích để học sinh tự thấy sự khác nhau của 2 dạng toán ngay trong khi thực hiện bước chia cho 100 (bài 1) là để tìm 1% của 120 rồi mới nhân với 25 để tìm 25% của 120; và chia cho 50 (dạng 2) cũng để tìm 1% của 120 rồi nhân với 100 để tìm số phải tìm (vì số phải tìm là 100%). Phân tích kỹ như vậy học sinh mới hiểu được bản chất của 2 dạng Toán và không bị nhầm lẫn dạng 2 và dạng 3 của Toán tỷ số phần trăm. - Cho học sinh giải đi giải lại nhiều bài tập có liên quan đến các dạng toán đó. - Thường xuyên kiểm tra bài làm của học sinh về các dạng Toán cơ bản trong đó có so sánh đối chiếu các dạng toán; chấm chữa tỉ mỉ, chỉ ra chỗ sai của học sinh đồng thời giải thích em đã sai do đâu, yêu cầu học sinh đó làm lại nếu cần. - Với những bài toán lời văn cần cho học sinh hiểu đề bài, phân tích tỉ mỉ đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh biết cách giải. Với các phép tính với các số thập phân, cách tính tương tự các số tự nhiên, khi các em đã thực hiện tốt các phép tính với số tự nhiên, giáo viên chỉ cần lưu ý các em cách xử lí dấu phẩy cho phù hợp. Các phép tính cộng, trừ với số thập phân: Lưu ý các em đặt các chữ số cùng hàng thẳng cột với nhau, dấu phẩy ở tổng (hiệu) thẳng cột với dấu phẩy của các số hạng (số bị trừ, số trừ). - Phép nhân: Dấu phẩy được đánh bằng cách đếm các chữ số ở phần thập phân của hai thừa số rồi dùng dấu phẩy tách ở tích ra bấy nhiêu chữ số kể từ phải sang trái. - Phép chia: Lưu ý học sinh xác định phần thập phân của số chia có bao nhiêu chữ số, dịch chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang phải bấy nhiêu chữ số rồi bỏ dấu phẩy ở số chia. - Thường xuyên kiểm tra các quy tắc tính trong từng bài, từng tiết học. - Cho học sinh làm các bài tập giống các bài mẫu để học sinh nắm thật chắc các kĩ năng tính toán. Sau đó cho học sinh vận dụng giải các bài có độ khó cao hơn đòi hỏi sự so sánh, đối chiếu, . . . để học sinh nắm kĩ hơn về các dạng toán. 2.3.2.4. Hướng dẫn học sinh phương pháp học môn Toán - Cần luyện tập nhiều lần. - Học lý thuyết xong mới thực hành. - Với những bài toán lời văn cần làm tuần tự theo các bước : Tìm hiểu đề bài, gạch chân các từ quan trọng, phân tích đầu bài, tìm hướng giải, trình bày lời giải, thử lại. 2.3.3 Thực hành luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức. - Học sinh yếu kém thường chậm nhớ nhanh quên. Vì vậy nếu một kiến thức mà học sinh chưa thành thạo thì học sinh rất dễ quên do đó tôi thường tăng các bài tập cùng loại. Cho học sinh thực hành nhiều lần một kiến thức dựa trên các bài mẫu (có thể thay số) nhằm tạo thành đường mòn thì học sinh sẽ nhớ lâu, tăng các bài tập vào các giờ tự học, buổi hai,.. Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ với học sinh yếu tôi cho giải bài toán “10 người làm xong một công việc hết 7 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó trong 5 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)” Bài thứ 2 tôi chỉ cần cho học sinh tự thay số khác ra một đề toán mới và gải như: “10 người làm xong một công việc hết 14 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó trong 7 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)” - Cho các em làm các bài toán gắn với thực tế cuộc sống, các bài toán vui để các em dễ liên tưởng và hình dung. Sau đó cho học sinh thực hành làm các bài tập dạng khác nhau đòi hỏi có sự tư duy cao hơn như: so sánh, đối chiếu, phân tích nhưng phải đảm bảo tính vừa sức. Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ tôi cho học sinh đề bài “Lớp 5B trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc có 36 học sinh quét xong sân trường hết 40 phút. Nếu bổ sung thêm 4 bạn học sinh nữa thì lớp 5B quét xong sân trường hết bao nhiêu thời gian.(Mức làm của mỗi bạn là như nhau)” - Trên lớp, giảng thật chậm, kĩ và hướng dẫn tỉ mỉ khi gặp những dạng toán mới, khó, kiên trì không nóng vội. Giáo viên tận tình giúp đỡ, kiên trì, không nóng vội. 2.3.4 Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi, nhóm trưởng để kèm cặp học sinh yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản. Trong một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút một giáo viên ngoài việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém, tuy nhiên thời gian có hạn nên lớp có từ 5-6 học sinh yếu thì giáo viên không có đủ thời gian để hướng dẫn tỷ mỷ đến tất cả các em học sinh yếu do đó đôi khi một số học sinh yếu bị bỏ rơi. Trong năm học 2013-2014 trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc áp dụng tổ chức lớp học và áp dụng linh hoạt phương pháp dạy học theo mô hình trường Tiểu học mới Việt Nam tôi đặc biệt chú ý việc kiểm soát của nhóm trưởng và sự hướng dẫn của nhóm trưởng với học sinh yếu. - Giao cho hội đồng tự quản, trưởng ban học tập, nhóm trưởng thường xuyên kèm cặp hướng dẫn, kiểm tra việc học của các học sinh này. - Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị của các bạn học sinh yếu qua giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng lại chỗ bạn chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài khi sai. Nhóm trưởng, trưởng ban học tập có thể trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm về bạn mình được phân công kèm cặp khi cần. - Trong hoạt động nhóm tôi tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên gọi các bạn học yếu này đại diện cho nhóm báo cáo ý kiến thảo luận của nhóm mình. Phân cho nhóm trưởng kiểm tra, giúp đỡ việc chuẩn bị bài, hướng dẫn các bạn học yếu trong quá trình làm bài tập, vận dụng lí thuyết vào thực hành. Bạn học yếu thường xuyên được báo cáo kết quả thảo luận của nhóm - Xây dựng đôi bạn cùng tiến. Đôi bạn cùng tiến giúp đỡ nhau trong học tập Đôi bạn cùng tiến trong giờ học Toán Tích cực chia sẻ trong nhóm 2.3.5. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh yếu kém - Thường xuyên theo dõi ý thức, thái độ học tập của các em phát hiện kịp thời những học sinh có biểu hiện lười học, chán học để có biện pháp giáo dục phù hợp. - Hàng tháng, hàng tuần phải theo dõi sát sao kiến thức mà các em lĩnh hội, nếu đơn vị kiến tức nào học sinh chưa hiểu giáo viên bù lấp và hướng dẫn ngay tránh trường hợp giáo viên buông lỏng việc theo dõi học sinh yếu dể học sinh chồng chất những kiến thức chưa hiểu thì học sinh không thể học những kiến thức mới được. - Thường xuyên tự ra đề để khảo sát học sinh yếu, chấm, chữa tỷ mỷ, chỉ ra lỗi sai và yêu cầu học sinh làm lại khi cần. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Từ các biện pháp trên, với sự cố gắng, quan tâm sát sao của giáo viên, sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh học sinh, kết quả học tập của học sinh đã tăng lên rõ rệt. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác, ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học toán, học sinh dần dần biết cách phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới và cách giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua điểm số. Cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà trường, tích cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường. Kết quả thu được qua bài kiểm tra cuối học kì I lớp 5B, năm học 2013 - 2014 (môn Toán): SHS TSHSKS Giỏi Khá TB Yếu 36 (1KT Không ĐG) 35 (!KTĐG) SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 10 28,6 17 48,6 6 17,1 2 (1KTĐG) 5,7 So với đầu năm, cuối học kì I có 4 em từ học lực Yếu vươn lên học lực TB, 7 em từ học lực TB lên học lực Khá, 4 em từ học lực Khá lên học lực Giỏi. 3. Kết luận Sau một thời gian áp dụng sáng kiến “ Một số biện pháp giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán lớp 5 ”, tôi đã rút ra một số kết luận sau: Ở tất cả các trường hợp học sinh yếu môn Toán, việc quan tâm của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, kịp thời khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về kiến thức, kỹ năng và cách suy luận toán học sẽ giúp các em dần theo kịp yêu cầu về chuẩn KTKN môn Toán ở cấp Tiểu học như các biện pháp mà tôi đã áp dụng như: - Gây hứng thú học tập cho các em - Bù lấp chỗ hổng kiến thức ; hướng dẫn một số thủ thuật tính toán, phương pháp học Toán - Thực hành luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức. - Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi, nhóm trưởng để kèm cặp học sinh yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản. - Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh yếu kém Song nhiệm vụ chủ yếu của người thầy vẫn là sự tiến bộ chung của toàn lớp. Vì thế tôi nghĩ, trong tất cả các khâu soạn, giảng, kiểm tra người thầy vẫn phải lấy trình độ tiếp thu chung của lớp làm chuẩn mực để hướng tới. Vấn đề là, trong cái chuẩn mực chung ấy người thầy còn phải luôn luôn lưu tâm đến những em học yếu môn Toán, luôn dành cho các em một sự ưu ái, một thái độ khích lệ, những lời chỉ bảo ân cần và sự tiến bộ của các em trong học tập là phần thưởng vô giá đối với mỗi người giáo viên chúng ta. Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc giúp đỡ học sinh học yếu môn Toán, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp. Lào Cai, ngày 02 tháng 1 năm 2014 Bạn học yếu thường xuyên được báo cáo kết quả trước lớp Các bạn học sinh trong lớp động viên cổ vũ kịp thời
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_cac_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_yeu_mon.doc